BÁI 9
NGHI
TƯỢNG - QUÁI
và những định luật
______________________________________
I
NGHI THỂ
Thái Cực lưỡng phân nhị thể âm
dương.
Dương thể gọi là Dương Nghi, Âm
thể gọi là Âm Nghi.
Âm Dương chiếm vị trong Thái Cực
theo luật
<< dương tả âm hữu >>
Dương
Nghi gốc ở Bắc ngọn ở Nam, trãi
cung độ BắcĐôngNam = 180. Âm
Nghi gốc ở Nam ngọn ở Bắc, trãi
cung độ NamTâyBắc = 180. Hai
nghi đối đãi qua tâm Thái cực
nên chi mỗi cái A trên dương
nghi có cái đối B trên âm nghi
dẫn đến A & B có đối
âm dương dấu, đối sắc, đối cảm,
đối thức, đối thanh.
Lưỡng Nghi vận động với chu kỳ
hai thì biến đổi thành nhau, có
nghĩa “dương biến thành âm,
âm biến thành dương”. Phục
Hy dụng vạch liền
biểu thị
dương, dùng vạch đứt
biểu thị âm
cho ra VÒNG DỊCH là vòng tuần
hoàn âm dương biến đổi. HỆ LUẬN về HÀO ĐỘNG
biến vạch liền
thành vạch đứt, vạch đứt
thành vạch liền ( âm là tác
nhân gây biến ) :
II
TỨ
TƯỢNG
Từ vũ
trụ rộng lớn đến vạn vật bé nhỏ
cùng có vòng này để bảo tồn. Vài
ngàn năm sau phương Đông, khoa
học gia phương Tây mới khái niệm
được vòng dịch từ vòng tuần hoàn
Mendeleev đến vòng tuần hoàn
Carnot, rồi nhiều vòng tuần hoàn
khép kín được tìm ra ; rất thú
vị là mới đây tìm ra được vòng
tuần hoàn “chất phế
thải - thực phẩm” để bảo toàn sự sống phi hành gia không gian
là bởi bát quái lưỡng phân dàn
bày "trong cái nọ có
tượng của cái kia, trong cái kia có
tượng của cái nọ". Thái cực lưỡng phân thành
Nghi, Nghi lưỡng phân thành
Tượng. Hai Nghi lường phân thành
tứ tượng Thiếu âm, Thái
dương,Thiếu dương, Thái âm :
Định
luật “dương trung hữu
âm căn, âm trung hữu dương căn”
rút ra từ
qúa trình NGHI PHÂN LƯỠNG bởi
trong dương nghi có căn âm mới
có âm để phân, cũng vậy nếu
trong âm nghi không có căn dương
thì dương có đâu để phân. Tượng
có TƯỢNG THỂ : định nghĩa kiểu
toán pháp thời nay TƯỢNG THỂ là
tích dấu âm dương hào.
Mỗi tượng có hai hào : Thiếu Âm
với hai hào trừ cọng thành âm,
Thái Dương với hai hào cọng cọng
thành dương, Thiếu Dương
với hai hào trừ cọng thành âm,
Thái Âm với hai hào trừ trừ
thành dương. Thiếu Âm với
Thái Dương là hai tượng thuộc
Dương Nghi được thành lập trên
đà dương tăng sau khi sanh và âm
giảm sau khi thái. Sự lý dương
tăng làm âm thiếu, dương thái
làm âm tiêu bộc lộ qua tính danh
hai tượng Thiếu âm, Thái
Dương ( nơi Thiếu Âm dương tăng
3, âm giảm 2, nơi Thái Dương
dương tăng 32, âm
giảm 22 ). Thiếu
Dương với Thái Âm là hai tượng
thuộc Âm Nghi được thành lập
trên đà âm tăng sau khi sanh và
dương giảm sau khi thái. Sự lý
âm tăng làm dương thiếu, âm thái
làm dương tiêu bộc lộ qua tính
danh hai tượng Thiếu Dương, Thái
Âm ( nơi Thiếu Dương âm tăng 2,
dương giảm 3, nơi Thái Âm âm
tăng 22, dương giảm 32
). Nơi tượng thì hai tượng Thái
với Thái,Thiếu với Thiếu đối hào
mà không đối thể. NGÔI THỨ của
tứ tượng thì : THÁI DƯƠNG một,
THIẾU ÂM hai, THIẾU DƯƠNG
ba, THÁI ÂM bốn.
Hỏi tại sao Tứ Tượng lại có
ngôi vị ấy ? Luận bàn của
chư nho ( xem Kinh Dịch Ngô Tất
Tố ) càng lúc càng rời bỏ ý chỉ toán pháp của Thánh Nhân, bởi
chỉ cứ vào tầng Nội [123] thì
chưa biết được tứ tượng có chu
kỳ tuần hoàn mà phải đến tầng
ngoại [234] mới nhận ra được tứ
tượng tuần hoàn với chu kỳ bốn
thì mà Thái Dương 1, Thiếu Âm 2,
Thiếu Dương 3, Thái Âm 4 rồi lại
Thái Dương 1 :
Bởi cái
lẽ dương chủ phải lấy
dương làm gốc, mà dương thịnh
thái ở Nam nên lấy THÁI DƯƠNG mà
kể ngôi một thì THIẾU ÂM ngôi
hai, THIẾU DƯƠNG ngôi ba, THÁI
ÂM ngôi bốn. Tứ Tượng vận động
với chu kỳ bốn, ứng ra vật nên
chi vật có vận động bốn thì
như xuân hạ thu đông,
ấm nóng mát lạnh, sáng trưa
chiều tối, hột cây hoa trái, tằm
nhộng bướm trứng, sanh lão bệnh
tử, thành thịnh suy hũy
là do chu kỳ
tượng ứng bày ra.
ĐỊNH
LUẬT VỀ
TƯỢNG THỂ TƯƠNG HỢP
BẤT TƯƠNG HỢP
Phát biểu tổng quát sau đây về
tượng thể là “ đồng
thể tương hợp, không đồng thể
bất tương hợp ”.
Tượng đồng thể là tượng có cùng
dấu âm hay dương. Theo đấy thì
Thái Dương Thái Âm đồng thể
tương hợp, Thiếu Âm Thiều Dương
đồng thể tương hợp. Tượng
khác dấu là tượng không đồng
thể bất tương hợp như hai
tượng [ Thái âm với Thiếu
âm ] [ Thiếu dương với Thái
âm] hay như [ Thái dương với
Thiếu âm ] [ Thiếu dương
với Thái dương ] :
III
BÁT QUÁI
QUÁI THỂ
Thái Dương
tượng lưỡng phân thành KIỀN
ĐOÀI, Thiếu Âm tượng lưỡng phân
thành LY CHẤN, Thiếu Dương tượng
lưỡng phân thành TỐN KHẢM, Thái
Âm tượng lưỡng phân thành CẤN
KHÔN. Quái có QUÁI THỂ, nói theo
kiểu toán pháp thì THỂ QUÁI là
tích dấu của ba hào quái.
Vậy là Kiền dương, Đoài âm, Ly
âm, Chấn dương, Tốn âm, Khảm
dương, Cấn dương, Khôn âm.
Nói về nơi chốn quái sinh thì
KIỀN sinh tại Nam Đông Nam (
thượng Thái dương ), ĐOÀI sinh
tại Đông Đông Nam ( hạ Thái
dương ). LY sinh tại Đông Đông
Bắc ( thượng Thiếu âm ), CHẤN
sinh tại Bắc Đông Bắc ( hạ Thiếu
âm ). TỐN sinh tại Nam Tây Nam (
thượng Thiếu dương, KHẢM sinh
tại Tây Tây Nam ( thượng Thiếu
dương ). CẤN sinh tại Bắc Tây
Bắc ( thượng Thái âm ), KHÔN
sinh tại Bắc Tây Bắc ( hạ Thái
âm.
Bởi nội bát quái có phương vị cố
định nên chi nội bát quái bất
động, không dời chỗ như ngoại
quái. Nội Bát quái từng cặp đối
đãi nhau qua tâm như [ Kiền
đối Khôn ] [ Ly đối
Khảm ] [ Chấn đối Tốn ] [
Đoài đối Cấn ]. Hào quái
của hai quái đối cũng đối nhau
ví như hào 2 của Ly âm thì hào 2
của Khảm dương. Sự đối chính yếu
là đối thể quái dương âm như
Kiền Khôn đối, Đoài Cấn đối, Ly
Khảm đối, Chấn Tốn đối.
Bát Quái ứng ra bát thể của trời
đất thì Thiên đối Địa,
Thủy đối Hỏa, Lôi đối
Phong, Sơn đối Trạch.
Chiều hướng, tính chất, ngay cả
hình thể ứng trong vật thấy có
đối đãi nhau ( nên tham khảo
thuyết quái truyện ở Kinh Chu
Dịch Bản nghĩa, bản dịch của
Nguyễn Duy Tinh ). Ở quái là
tượng đã phát triển từ hai lớp
âm dương lên ba lớp. Người ta
gọi các lớp âm dương nơi tượng,
nơi quái là hào. Cơ bản quái có
3 hào thì hào 1 được xem là hào
nghi, hào 2 là hào tượng, hào 3
là hào quái. Kiền quái có 3 hào
dương là quái có dương lượng to
tát nhất ( 33 ) trong
số bát quái ( sánh thiên ). Khôn
quái có ba hào âm là quái có âm
lượng to tát nhất ( 24
) trong số bát quái ( sánh
địa ). Bởi lẽ Quái là một TIỂU
THÁI CỰC mà hoạt động của Thái
Cực xuất phát từ trung tâm nên
chi hoạt động quái xuất phát từ
trung tâm quái. Cái hào số 2
ở trung tâm quái gọi là
hào tượng rất quan trọng vì
rằng hào 2 của quái bị biến
thì tượng quái biến mà tượng
quái biến thì quái tiêu đời nên
chi các nhà Tượng số học mới gọi
hào 2 là hào bổn mạng.
LUẬT
VỀ QUÁI
TƯƠNG HỢP
BẤT TƯƠNG HỢP
A
Hai quái cùng tượng thì tương
hợp :
B
Quái thuộc hai tượng không đồng thể
bất tương hợp :
C
Quái thuộc hai tượng đồng thể
tương hợp
Các nhà
Phong Thủy, Thuật số vận dụng
định luật quái tương hợp & bất
tương hợp hiệp với luật ngũ hành
sanh khắc bát quái chế ra công
thức như BÁT TỰ hôn nhân, BÁT
TRẠCH hướng nhà, BÁT SAN GIAO
CHIẾN. Hào tượng của quái
biến thì hai quái có ngũ
hành tương khắc tuyệt tử nhau
nên BÁT SAN TUYỆT MẠNG có ca
quyết :
Bà CÀN đi chợ hồ LY
Mua con cá CẤN làm chi TỐN tiền
Ông KHẢM lại học làm KHÔN
Gánh nước non ĐOÀI té CHẤN gảy
lưng
____________________________________________________________
TÓM TẮT
BÀI
THÁI
CỰC
NGHI
- TƯỢNG - QUÁI
@/ Trong CÁI MỘT TOÀN THỂ
bao giờ cũng hiện hữu hai thành
phần âm dương gọi là LƯỠNG NGHI
: một gọi dương nghi, một gọi âm
nghi. Dương nghi chiếm vị tả, âm
nghi chiếm vị hữu trong cái một
mà có luật “dương tả, âm hữu”. Tánh chất dương trong nhẹ
chiều hướng lên, tánh chất âm
nặng đục chiều hướng xuống.
@/ Trong một NGHI bao giờ
cũng hàm chứa hai thành phần âm
dương một thái, một thiếu phân
nghi thành hai tượng thái,
thiếu. Dương tượng ở trên, âm
tượng ở dưới mà có luật “dương thượng, âm hạ”. Bởi hai thành
phần âm dương trong một nghi có
sự biến thiên tăng giảm mà dương
tăng thì âm giảm, âm tăng thì
dương giảm nên chi trong một
nghi phải có một thái, một thiếu
: Với Dương Nghi thì phần thái
là tượng Thái Dương, phần thiều
là tượng Thiếu Âm. Với Âm Nghi
thì phần thái là tượng Thái Âm,
phần thiếu là tượng Thiếu Dương.
( nhiều tác gỉa không giải mả
được Hà Đồ, chỉ biết lấy vạch
chồng lên vạch nên chi đã không
biết lý nghĩa âm dương thiếu
thái, lại nhầm
lẫn giữa hai tượng Thiếu dương
với Thiếu âm )
@/ Trong một TƯỢNG bao
giờ cũng hàm chứa hai thành phần
âm dương mà dương chiếm phần
trên của tượng, âm chiếm phần
dưới của tượng, mỗi phần là một
QUÁI. @/ TƯỢNG có tượng
thể. Tượng thể là tích dấu của
hai hào tượng : tích dương thì
tượng dương thể, tích âm thì
tượng âm thể. @/ QUÁI có
quái thể. Quái thể là tích dấu
của ba hào quái : tích dương thì
dương quái, tích âm thì âm quái.
________________________________________________________
BÀI 10
HỆ
LUẬN KIỀN KHÔN
CHƯƠNG II
INDEX
/
THÁI CỰC LƯỠNG PHÂN
/
CẤU TRÚC BÁT QUÁI
/
4 TẦNG QUÁI
CHU KỲ QUÁI
/
LỤC THẬP TỨ QUÁI
/
BÁT QUÁI LƯỠNG PHÂN
QUÁI TUYẾN /
THẬP NHỊ ĐỊA CHI
/
NGHI TƯỢNG QUÁI
KIỀN KHÔN GIAO THÁI
/
KIỀN KHÔN BIẾN
BÁT QUÁI VẬN ĐỘNG /
NGŨ HÀNH BÁT QUÁI
|