NỘI
QUÁI từng cặp đăng đối qua
tâm Thái cực : Kiền 1 đăng đối
Khôn 8, Đòai 2 đăng đối Cấn
7, Ly 3 đăng
đối Khảm 6, Chấn 4 đăng đối Tốn
5. Hào
vị của hai quái đối cũng đăng
đối qua tâm Thái cực. Tính chất
của nội quái bất động
bởi chúng được định vị từ khi sanh.
NGOẠI QUÁI có tính tráo trở
như ngày trên đêm, đêm trên
ngày. Ngoại quái không đăng đối qua
tâm, ngoại trừ hai cặp quái
8/1 - 1/8 (Địa Thiên Thái -
Thiên Địa Bỉ) và 6/3 - 3/6
(Thủy Hỏa Kỷ Tế - Hỏa Thủy
Vị Tế) vừa tráo trở vừa đăng
đối. Mỗi một ngoại quái có 8
phương vị tức ngoại quái có dời đổi,
có di
động.
thứ tự
LỤC THẬP TỨ QUÁI
tên
LỤC
THẬP
TỨ QUÁI
Văn Vương dụng ba bốn chữ
tượng thể, tượng hình, tượng
tánh
để vừa biểu tỏ ý nghĩa quái
vừa làm danh gọi quái.
Trong
miền dương nghi từ Nam xuống có
32 quái : bát thuần kiền (1/1),
trạch thiên quải (2/1),
hỏa thiên đại hữu (3/1),
lôi thiên đại tráng (4/1),
phong thiên tiểu súc (5/1),
thủy thiên nhu (6/1), sơn
thiên đại súc (7/1), địa
thiên thái (8/1), thiên
trạch lý (1/2), bát thuần
đoài (2/2), hỏa trạch
khuê (3/2), lôi trạch qui
muội (4/2), phong trạch
trung phu (5/2), thủy
trạch tiết (6/2), sơn
trạch tổn (7/2), địa
trạch lâm (8/2), thiên
hỏa đồng nhân (1/3),
trạch hỏa cách (2/3), bát
thuần ly (3/3), lôi hỏa
phong (4/3), phong hỏa
gia nhân (5/3), thủy hỏa kỷ tế (6/3),
sơn hỏa bí (7/3), địa hỏa
minh di (8/3), thiên lôi
vô vọng (1/4), trạch lôi
tùy (2/4), hỏa lôi phệ
hạp (3/4), bát thuần chấn
(4/4), phong lôi ích (5/4),
vân lôi truân (6/4), sơn
lôi di (7/4),địa lôi phục (8/4).
Trong miền âm nghi từ Nam
xuống có 32 quái : thiên
phong cấu (1/5), trạch
phong đại qúa (2/5), hỏa
phong đỉnh (3/5), lôi
phong hằng (4/5), bát
thuần tốn (5/5), thủy
phong tĩnh (6/5), sơn
phong cổ (7/5), địa phong
thăng (8/5), thiên thủy
tụng (1/6), trạch thủy
khổn (2/6), hỏa thủy vị
tế (3/6), lôi thủy giải (4/6),
phong thủy hoán (5/6),
bát thuần khảm (6/6), sơn
thủy mông (7/6), địa thủy
sư (8/6), thiên sơn độn (1/7),
trạch sơn hàm (2/7), hỏa
trạch khuê (3/7), lôi sơn
tiểu qúa (4/7), phong sơn
tiệm (5/7), thủy sơn kiển
(6/7), bát thuần cấn (7/7),
địa sơn khiêm (8/7),
thiên địa bỉ (1/8), trạch
địa tụy (2/8), hỏa địa
tẩn (3/8), lôi địa dự (4/8),
phong địa quán (5/8),
thủy địa tỷ (6/8), sơn
địa bát (7/8), bát thuần
khôn (8/8).
Nơi LỤC THẬP TỨ QUÁI thể hiện
nhiều tính chất : một là tính
di động, hai là tính đăng
đối, ba là tính động biến,
bốn là tính tráo trở.
@/ TÍNH DI ĐỘNG : Hạ quái
của quái lục hào tức nội quái cố
định tại chỗ nhưng ngoại quái
thì có mặt ở khắp nơi ví như
quái 1/5, 1/6, 1/7, 1/8
là Kiền quái từ quê hương Nam
Đông Nam đã di chuyển ra bên
ngoài để đến phương vị của Tốn,
Khảm, Cấn, Khôn. @/ TÍNH ỨNG
ĐỐI : 64 quái lục hào bày ra
32 cặp tỉ số đối ứng có dạng
A/B đối B/A ví như
1/8 = Thiên trên Địa là bế
bỉ đối lại với 8/1 = Địa
trên Thiên là hanh thông. Văn
Vương vận dụng ba đến bốn chữ
tượng thể, tượng hình, tượng
tánh để vừa biểu tỏ ý nghĩa quái
vừa làm danh gọi quái. Ba chữ
như [ Thiên Địa Bỉ ] [ Địa Thiên
Thái ] [ Phong Sơn Tiệm ] [ Sơn
Phong Cổ ], bốn chữ như [ Lôi
Thiên Đại Tráng ] [ Thiên Lôi Vô
Vọng ] [ Hỏa Thiên Đại Hữu ] [
Thiên Hỏa Đồng Nhân ]. Những cặp
chữ ứng đối như [ thái - bỉ ] [
tiệm - cổ ] [ đại tráng – vô
vọng ] [ đại hữu - đồng nhân ]
được luận ra từ tánh ý của hai
đơn quái hiệp phối thành quái
lục hào. Không có mẫu chung làm
tiêu chuẩn để luận suy, đại để :
1/ khi thì lấy chiều
hướng khí âm dương giao hợp hay
bất giao hợp mà luận tánh quái
lục hào ví như quẻ Thái với Khôn
trên Kiền dưới thì hai chiều
giao hợp để có cái phát sinh là
hanh thông, ngược lại với Kiền
trên Khôn dưới thì hai chiều bất
tương phùng khiến không có cái
phát sinh là bế bỉ 2/ khi
thì lấy sự phát triển khí mạnh
mẽ hay suy vi mà luận tánh quái
lục hào như với Chấn trên Kiền
dưới là tượng dương khí trong
Chấn đã phát triển mạnh mẽ là <<
đại tráng >> mới lên cao hơn
Kiền để xung đột với âm khi của
thượng thiên mà sinh lôi ( sấm
sét ), ngược lại với Kiền trên
Chấn dưới là tượng dương khí
trong Chấn << vô vọng >> đại
tráng để sinh lôi. @/TÍNH
ĐỘNG BIẾN : luật tích dấu
cho biết << cọng nhân
trừ thành trừ, trừ nhân trừ
thành cọng >>
có nghĩa âm
dương biến đổi, sự biến từ dương
sang âm hay từ âm sang dương
gọi là sự động hào dẫn đến kết
qủa dương hào động biến thành âm
hào, âm hào động biến thành
dương hào ví như Kiền động hào 1
thành Tốn, Kiền động hào 2
thành Ly, Kiền động hào 3 thành
Đoài. Sự động biến hào có thể
chỉ xảy ra trên một hào mà cũng
có thể cùng lúc xảy ra trên
nhiều hào, do vậy một quái có
thể biến thành một quái bất kỳ
nào.
Ở những phép bói toán người
ta dụng một quái lục hào làm
CHÁNH QUÁI để chiêm đoán sự. Để
thiết lập một Chánh quái phải
cần hai con số bằng cách bốc
thăm, đếm lá. Số thăm, số lá
được qui đổi ra Tiên thiên số
Phục Hy rồi sau đó qui thành
thượng, hạ quái. Hỏi tại sao
dùng tiên thiên quái số mà không
dùng hậu thiên quái số thiết lâp
tình thức bói ? Câu hỏi thật
hốc búa, không thể chỉ vài lời
giải thích
đại để tổ tiên ta từ nghìn nghìn
năm xưa biết dụng ”âm dương
quái số” lập trình tư tưởng
người :
Người là
một tiểu Thái cực, hoạt động như
Thái cực lưỡng phân âm dương
sanh nghi tượng quái. Khi người
động tâm phát sanh tư tưởng mưu
cầu, thuật số gia dụng cách gieo
tiền, bốc thăm hay chọn số để
lấy ra “quái tưởng”, phân tích
giòng âm dương quái tưởng mà
phán đoán mưu sự của người cầu.